TUỔI HẠP – KHẮC NĂM GIÁP NGỌ

Logo KH huyen bi

H DphuongNĂM NGỌ MUỐN BIẾT TUỔI

HẠP & KHẮC KỴ RA SAO ?

Sau năm Quý Tỵ chấm dứt, thì đến năm Giáp Ngọ được bàn giao từ giờ giao thừa bắt đầu giữa đêm thứ năm, 30/1/2014 để cầm tinh đến 24 giờ đêm 18/2/2015. Năm Giáp Ngọ này thuộc hành Kim và mạng Sa Trung Kim, năm này thuộc Dương, có can Giáp thuộc mạng Mộc và có chi Ngọ thuộc mạng Hỏa. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành, thì năm  này “Can Trời sanh Chi Đất” tức “mạng Mộc sanh mạng Hỏa“. Bởi vì : mạng Mộc bị sinh xuất, mạng Hỏa tức Đất được sinh nhập. Do vậy, năm này tổng quát rất tốt, thuận lợi, tiến triển về mọi mặt để đưa đến thành công như ý. Trường hợp này, giống như người có : mạng Mộc gặp năm mạng Thủy – mạng Thủy gặp năm mạng Kim – mạng Kim gặp năm mạng Thổ – mạng Thổ gặp năm mạng Hỏa và mạng Hỏa gặp năm mạng Mộc. Được biết năm Ngọ vừa qua là năm Nhâm Ngọ thuộc hành Mộc, nhằm ngày thứ ba, 12/02/2002 đến 31/01/2003.

Căn cứ theo Niên Lịch Cổ Truyền Á Đông  xuất  hiện  được  minh định  quảng bá  từ  năm  61  của  đời Hoàng Đế bên Tàu, bắt đầu năm 2637 trước Công Nguyên, cho nên chúng ta lấy 2637 + 2014 = 4651, rồi đem chia cho 60 năm, thì có kết quả Vận Niên Lục Giáp  thứ  77 và số dư 31 năm bắt buộc rơi vào Vận Niên Lục Giáp thứ 78 bắt đầu từ năm 1984 đến năm 2043. Do vậy, năm Giáp Ngọ 2014 này là năm thứ 31 của Vận Niên Lục Giáp 78 và năm Tỵ kế tiếp sẽ là năm Bính Ngọ thuộc hành Thủy, nhằm ngày thứ ba tính từ 17/02/2026 đến 05/02/2027.

Năm Giáp Ngọ có người thắc mắc, muốn biết năm này tuổi ảnh hưởng như thế nào ? Vậy chúng ta thử phân tách năm Giáp Ngọ thì thấy 3 việc phải làm như sau :

I/- Đối với mạng ảnh hưởng như thế nào ?

Bởi vì, năm Giáp Ngọ thuộc mạng Kim, cho nên năm này sẽ đưa đến thuận hạp hay khắc kỵ với mọi người như thế nào ?

Xin trích dẫn như dưới đây :

1/- Những người có tuổi cùng mạng Kim như : Giáp Tý (1924 – 1984 …), Ất Sửu (1925 – 1985 …), Nhâm Thân (1932 – 1992 …), Quý Dậu (1933 – 1993 …), Canh Thìn (1940 – 2000 …), Tân Tỵ (1941 – 2001 …), Giáp Ngọ (1954 – 2014 …), Ất Mùi (1955 – 2015 …), Nhâm Dần (1962 – 2022 …),  Quý  Mão  (1963 – 2023 …), Canh  Tuất  (1920 – 1980 …) và Tân Hợi ( 1911 – 1971 …).

Xem như tương hòa với năm Giáp Ngọ, bởi vì có cùng mạng Kim, cho nên năm này có đời sống an cư & lạc nghiệp sẽ gia tăng, phát triển về mọi mặt một cách bình thường, vì không bị khắc kỵ. Phàm ở trên đời, nếu có đời sống ổn định bình thường, thì xem như tương sanh tốt đẹp.

Tuy nhiên, những người có mạng Âm Kim như tuổi : Ất Sửu,  Quý Dậu, Tân Tỵ,  Ất Mùi, Quý  Mão và Tân Hợi , thì tốt hơn những người có mạng  Dương Kim như tuổi : Giáp Tý, Nhâm Thân, Canh Thìn, Giáp Ngọ, Nhâm Dần và Canh  Tuất.. Bởi vì, theo luật Dương Âm lần lượt tiêu trưởng, không khác ngọn thủy triều lên xuống hoặc có không rồi không có hay nói khác đi là Sắc Không rồi Không Sắc. Vì thế: “Dương Âm tương ngộ tất ứng” còn “Dương ngộ Dương và  Âm ngộ Âm bất ứng”. Phương pháp này áp dụng cho tất cả các tuổi, để chúng ta thực hành sau này.

9 H ngu hanh 22/- Những người có tuổi cùng mạng Mộc của năm như : Mậu Thìn  (1928 – 1988 …), Kỷ Tỵ (1929 – 1989 …), Nhâm Ngọ (1942 – 2002 …), Quý Mùi (1943 – 2003 …), Canh Dần  (1950 – 2010 …),Tân Mão (1951 – 2011 …), Mậu Tuất (1958 – 2018 …), Kỷ Hợi (1959 – 2019 …), Nhâm Tý (1912 – 1972 …), Quý Sửu (1913 – 1973 …), Canh Thân (1920 – 1980 …) và Tân Dậu (1921 – 1981 …).

Những người có tuổi thuộc mạng Mộc, gặp năm Giáp Ngọ thuộc mạng Kim, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì “mạng Kim khắc mạng Mộc”. Bởi vì, mạng Kim được khắc xuất và mạng Mộc bị khắc nhập, cho nên trong năm này, xem như rất xấu tổng quát, không thể thực hiện gì kết quả tốt đẹp. Trường hợp này, giống như những người có : mạng Kim gặp năm mạng Hỏa – mạng Hỏa gặp năm mạng Thủy –  mạng Thủy gặp năm mạng Thổ và mạng Thổ gặp năm mạng Mộc.

3/- Những người có tuổi mạng Thủy như :  Bính Tý (1936 – 1996 …), Đinh Sửu (1937 – 1997 …), Giáp Thân (1944 – 2004 …), Ất Dậu (1945 – 2005 …), Nhâm Thìn (1952 – 2012 …), Quý Tỵ (1953 – 2013 …), Bính Ngọ (1906 – 1966 …), Đinh Mùi (1907 – 1967 …), Giáp Dần (1914 – 1974 …), Ất Mão (1915 – 1975 …), Nhâm Tuất  (1922 – 1982 …) và Quý Hợi (1923 – 1983 …).

Những người có tuổi mạng Thủy gặp năm Giáp Ngọ thuộc mạng Kim, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì “mạng Kim sinh mạng Thủy“. Bởi vì, mạng Kim bị sinh xuất và mạng Thủy được sinh nhập, cho nên năm này tổng quát rất tốt, thuận lợi, tiến triển về mọi mặt để đưa đến thành công như ý. Trường hợp này, giống như người có : mạng Kim gặp năm mạng Thổ – mạng Thổ gặp năm mạng Hỏa – mạng Hỏa gặp năm mạng Mộc và mạng Mộc gặp năm mạng Thủy.

4/- Những ngưởi có tuổi mạng Hỏa như : Bính Dần (1926 – 1986 …), Đinh Mão (1927 – 1987 …), Giáp Tuất (1934 – 1994 …), Ất Hợi (1935 – 1995 …), Mậu Tý (1948 – 2008 …), Kỷ Sửu  ( 1949 – 2009 …), Bính Thân (1956 – 2016 …), Đinh Dậu (1957 – 2017 …), Giáp Thìn (1904 – 1964 …), Ất Tỵ ( 1905 – 1965 …), Mậu Ngọ (1918 – 2078 …) và Kỷ Mùi (1919 – 1979 …).

Những người có tuổi thuộc mạng Hỏa, gặp năm Giáp Ngọ thuộc mạng Kim, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì “mạng Hỏa khắc mạng Kim”. Bởi vì, mạng Hỏa được khắc xuất và mạng Kim bị khắc nhập, cho nên năm này tổng quát những người có mạng Hỏa mặc dù bị khắc kỵ, nhưng nó không bị ảnh hưởng xấu nhiều, vì những người đó có mạng khắc kỵ với năm và cũng không có lợi bằng những người có mạng Kim cùng năm mạng Kim đã dẫn. Trường hợp này, giống như người có : mạng Kim gặp năm mạng Mộc – mạng Mộc gặp năm mạng Thổ – mạng Thổ gặp năm mạng Thủy và Thủy gặp năm mạng Hõa.

5/- Những người có tuổi mạng Thổ như :  Canh Ngọ (1930 -1990 …), Tân Mùi (1931 – 1991 …), Mậu Dần (1938 – 1998 …), Kỷ Mão ( 1939 – 1999 …), Bính Tuất (1946 – 2006 …), Đinh Hợi (1947 – 2007 …), Canh Tý (1900 – 1960 …), Tân Sửu ( 1901 – 1961 …), Mậu Thân (1908 – 1968 …), Kỷ Dậu (1909 – 1969 …), Bính Thìn (1916 – 1976 …) Đinh Tỵ (1917 – 1977 …). Canh Ngọ (1930 -1990 …), Tân Mùi (1931 – 1991 …), Mậu Dần (1938 – 1998 …), Kỷ Mão (1939 – 1999 …), Bính Tuất (1946 – 2006 …) và  Đinh Hợi (1947 – 2007…).

Những người có tuổi mạng Thổ gặp năm Giáp Ngọ thuộc mạng Kim, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì “mạng Thổ sinh mạng Kim”. Bởi vì, mạng Thổ bị sinh xuất và mạng Kim được sinh nhập, cho nên những người có mạng Thổ  bị sinh xuất, cho nên những người có mạng Thổ  dù được tương sinh, nhưng năm này bị sinh xuất xem như bị tiêu hao tổng quát, vì chỉ cho ra mà chẳng thâu được nguồn lợi nào đáng kể và không bằng những người có mạng Hỏa gặp năm mạng Mộc cũng được tương sanh, vì “mạng  Mộc sinh mạng Hỏa”. Trường hợp này giống như những người có : mạng Mộc gặp năm mạng Hỏa – mạng Hỏa gặp năm mạng Thổ – mạng Thổ gặp năm mạng Kim và mạng Kim gặp năm mạng Thủy.

II/- Đối với Thiên Can ảnh hưởng như thế nào ?

1/- Năm Giáp gặp can Giáp Ất : Năm này là năm có Can là Giáp  thuộc mạng Mộc và những người có tuổi Can là Giáp Ất thuộc mạng Mộc, thì có cùng mạng Mộc, thì xem như tương hòa, cho nên năm này có đời sống an cư & lạc nghiệp sẽ gia tăng, phát triển về mọi mặt một cách bình thường, vì không bị khắc kỵ. Phàm ở trên đời, nếu có đời sống ổn định bình thường, thì xem như tương sanh tốt đẹp.

9 Coi boi 32/- Năm Giáp gặp can Bính Đinh : Năm này là năm có Can là Giáp thuộc mạng Mộc và những người có tuổi Can là Bính Đinh thuộc mạng Hỏa, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì “mạng Mộc sinh mạng Hỏa”. Bởi vì, mạng Mộc bị sinh xuất và mạng Hỏa được sinh nhập, cho nên năm này những người có mạng Hỏa, xem như tổng quát rất tốt, thuận lợi, tiến triển về mọi mặt để đưa đến thành công như ý. Trường hợp này, giống như những người có : mạng Mộc gặp năm mạng Thủy – mạng Thủy gặp năm mạng Kim – mạng Kim gặp năm mạng Thổ và mạng Thổ  gặp năm mạng Hõa.

3/- Năm Giáp gặp can Mậu Kỷ : Năm này là năm có Can là Giáp thuộc mạng Mộc và những người có tuổi Can là Mậu Kỷ thuộc mạng Thổ, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì “mạng Mộc khắc mạng Thổ”. Bởi vì, mạng Mộc được khắc xuất và mạng Thổ bị khắc nhập, cho nên năm này những người có mạng Thổ, xem như là năm xấu nhứt tổng quát, không thể thực hiện gì kết quả như ý. Trường hợp này, giống như những người có : mạng Mộc gặp năm mạng Kim – mạng Kim gặp năm mạng Hõa- mạng Hỏa gặp năm mạng Thủy và mạng Thủy gặp năm mạng Thổ.

4/-  Năm Giáp gặp can Canh Tân : Năm này là năm có Can là Giáp thuộc mạng Mộc và những người có tuổi Can là Canh Tân  thuộc mạng Thổ, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì “mạng Mộc khắc mạng Thổ”. Bởi vì, mạng Mộc được khắc xuất và mạng Thổ bị khắc nhập, cho nên năm này những người có mạng Thổ, xem như là năm xấu nhứt tổng quát, không thể thực hiện gì kết quả như ý. Trường hợp này, giống như những người có : mạng Mộc gặp năm mạng Kim – mạng Kim gặp năm mạng Hỏa – mạng Hỏa gặp năm mạng Thủy  và mạng Thủy gặp năm mạng Thổ.

5/- Năm Giáp  gặp can Nhâm Quý : Năm này là năm có Can là Giáp thuộc mạng Mộc và những người có tuổi Can là Nhâm Quý thuộc mạng Thủy,  theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì “mạng Thủy sanh mạng Mộc”. Bởi vì, mạng Thủy bị sinh xuất và mạng Mộc được sinh nhập, cho nên năm này những người có mạng Thủy dù được tương sinh, nhưng năm này bị sinh xuất xem như bị tiêu hao tổng quát, vì chỉ cho ra mà chẳng thâu được nguồn lợi nào đáng kể và không bằng những người có mạng Hỏa gặp năm mạng Mộc cũng được tương sinh, vì “mạng  Mộc sinh mạng Hỏa”. Trường hợp này giống như những người có : mạng Mộc gặp năm mạng Hỏa – mạng Hỏa gặp năm mạng Thổ – mạng Thổ gặp năm mạng Kim và mạng Kim gặp năm mạng Thủy.

III/ Đối với  Địa Chi ảnh hưởng như thế nào?

1/- Năm Ngọ gặp Chi Hợi Tý : Năm này có chi là Ngọ thuộc mạng Hỏa, những người có địa chi Hợi và Tý thuộc mạng Thủy, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì “mạng Thủy khắc mạng Hỏa”. Bởi vì, mạng Thủy được khắc xuất, mạng Hỏa bị khắc nhập, cho nên năm này những người có mạng Thủy không bị xấu tổng quát, nhưng cũng không lợi bằng những người mạng Hỏa có cùng năm mạng Hỏa.9 P Dong Trường hợp này, giống như những người có : mạng Hỏa gặp năm mạng Kim – mạng Kim gặp năm mạng Mộc – mạng Mộc gặp năm mạng Thổ và mạng Thổ gặp năm mạng Thủy.

2/-  Năm Ngọ gặp Chi Thìn Tuất Sửu Mùi : Năm này có Chi là Ngọ thuộc mạng Hỏa, những người có địa chi Thìn Tuất Sửu và Mùi tức Tứ Mộ thuộc mạng Thổ, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì “mạng Hỏa sinh mạng Thổ”. Bởi vì, mạng Hỏa bị sinh xuất và mạng Thổ được sinh nhập, cho nên năm này những người có mạng Thổ, xem như tổng quát rất tốt, thuận lợi, tiến triển về mọi mặt để đưa đến thành công như ý. Trường hợp này, giống như những người có : mạng Hỏa gặp năm mạng Mộc.- mạng Mộc gặp năm mạng Thủy – mạng Thủy gặp năm mạng Kim và mạng Kim gặp năm mạng Thổ.

3/- Năm Ngọ gặp Chi Dần Mão : Năm này có Chi là Ngọ thuộc mạng Hỏa, những người có địa chi Dần và Mão thuộc mạng Mộc, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành,  thì  “mạng  Mộc  sinh  mạng  Hỏa”. Bởi  vì, mạng Mộc bị sinh xuất và mạng Hỏa được sinh nhập, cho nên năm này những người có mạng Mộc, xem như năm bị tiêu hao tổng quát, vì chỉ cho ra mà chẳng thâu được nguồn lợi nào đáng kể, mặc dù không bị khắc kỵ nguy hiểm. Trường hợp này, giống như những người có : mạng Hỏa gặp năm mạng Thổ – mạng Thổ gặp năm mạng Kim – mạng Kim gặp năm mạng Thủy và mạng Thủy gặp năm mạng Mộc.

4/-  Năm Ngọ gặp Chi Tỵ Ngọ : Năm này có Chi là Ngọ thuộc mạng Hỏa, những người có địa chi Tỵ và Ngọ thuộc mạng Hỏa, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ  hành,  thì  có cùng mạng Hỏa, xem như tương hòa, cho nên năm này có đời sống an cư & lạc nghiệp sẽ gia tăng, phát triển về mọi mặt một cách bình thường, vì không bị khắc kỵ. Phàm ở trên đời, nếu có đời sống ổn định, thì xem như tương sanh tốt đẹp. Trường hợp này, giống như những người có mạng Thổ gặp năm Canh Thìn 2000 có Chi là Thìn cùng mạng Thổ vậy.

5/- Năm Ngọ gặp Chi Thân Dậu : Năm này có Chi là Ngọ thuộc mạng Hỏa, những người có địa chi Thân và Dậu thuộc mạng Kim, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ  hành,  thì  “mạng  Hỏa  khắc  mạng  Kim”. Bởi  vì, mạng Hỏa được khắc xuất, Kim bị khắc nhập, cho nên năm này những người có mạng Kim, xem như là năm xấu tổng quát và tai hại vô cùng. Trường hợp này, giống như những người có : mạng Hỏa gặp năm mạng Thủy – mạng Thủy gặp năm mạng Thổ – mạng Thổ gặp năm mạng Mộc và mạng Mộc gặp năm mạng Kim. (theo Hàn Lâm Nguyễn Phú Thứ)

Xuân Mai chuyển tiếp

4 Xuan duoc 1‘THẦN DƯỢC’ PHÒNG THE

KỲ QUÁI NHẤT LỊCH SỬ TRUNG QUỐC

Từ tên quan coi kho, họ Đào không ai biết tới nhờ “phương thuốc” này mà được trọng dụng. Tuy nhiên, theo các lương y đông y hiện nay thì thứ được xem là “xuân dược” này hoàn toàn không có tác dụng với chuyện phòng the, vô dụng với sức khỏe, thậm chí còn gây chết người.

“Xuân dược” và thứ nguyên liệu quái đản

Để có thể “tận dụng” hết những mỹ nữ trong tam cung lục viện, vua Minh Thế Tông (Đời nhà Minh, Trung Quốc) đã treo thưởng cho những ai chế được phương thuốc xuân dược hiệu nghiệm. Người hiến xuân dược trong thiên hạ ngày càng nhiều, trong số đó phương thuốc “tiếp mệnh thần đan” của Đào Trọng Văn (theo tương truyền thì đây là kẻ đã từng học phép thuật phù thủy) được nhà vua trọng dụng.

Khi dâng loại thuốc bí truyền này lên nhà vua, Đào Trọng Văn “quảng cáo” rằng : Uống loại “xuân dược” này người sẽ trẻ ra, máu huyết lưu thông, sức khỏe cường tráng và đặc biệt sẽ vô cùng mạnh mẽ, dẻo dai trong chốn phòng the và trường sinh bất lão.

Họ Đào vốn chỉ là một tên quan coi kho chẳng mấy ai biết tới nhưng nhờ hiến phương thuốc bào chế xuân dược đã được vua Minh Thế Tông sủng ái. Hắn nhanh chóng trở thành một nhân vật hiển quý bậc nhất trong triều đình. Sau khi dâng thuốc, họ Đào được thăng chức rất cao, ban thưởng rất hậu và giữ lại trong cung hằng ngày cùng nhà vua luyện phép tu tiên và chế xuân dược.

4 Xuan duoc 2Nhờ có “thuốc bí truyền” và miệng lưỡi dẻo hoạt, họ Đào rất biết cách dùng những lời lẽ kích động thú tính dâm dục trong con người Minh Thế Tông. Chính vì thế vị vua tham mê nhục dục này dù lúc đó đã ngoài 50 tuổi, sau khi uống thuốc của họ Đào có thể mây mưa với cung tần mỹ nữ liên tục tùy theo ý muốn, cả ngày lẫn đêm. Từ đó, Minh Thế Tông càng sao nhãng công việc triều chính, thậm chí còn làm rối loạn cả trật tự hậu cung. Luật thời đó ghi rõ, cung nữ sau khi được nhà vua ngự hạnh, sáng hôm sau sẽ phải tới báo danh để tạ ơn và sẽ được nhà vua ban cho danh hiệu. Nhưng Thế Tông đã ngự hạnh loạn xạ, không kể ngày đêm nên việc tạ ơn và ban thưởng không sao thực hiện được.

Theo tương truyền thì phương thuốc bí truyền của họ Đào cực kỳ quái dị. Theo đó, nguyên liệu số một để chế “Hồng diên hoàn” là kinh nguyệt lần đầu của phụ nữ (hồng diên) đựng trong những vật dụng bằng kim loại rồi cho thêm sương đêm, ô mai vào, sau đó đem sắc bảy lần. Sau khi đã sắc bảy lần những loại nguyên liệu đó lại cho thêm trầm hương, chu sa, nhựa thông,… rồi luyện bằng lửa, cuối cùng mới cô đặc lại chế thành thuốc viên để dùng.

Đất nước hỗn loạn chỉ vì một loại “xuân dược”

Để chế loại “xuân dược” quái đản này, Minh Thế Tông đã tổ chức rất nhiều đợt tuyển mỹ nữ với độ tuổi chỉ từ 11-16 để lấy “nguyên liệu”. Theo sách “Minh thực lục” có chép : Từ năm 1547 cho tới năm 1564, Hoàng đế triều Minh đã chọn vào cung hơn 1.000 thiếu nữ vào cung. Cụ thể như : Năm Gia Tĩnh thứ 26, tức năm 1547, tuyển 300 thiếu nữ tuổi từ 11-14 vào cung. Năm Gia Tĩnh thứ 31, tức năm 1552, lại tuyển 300 người. Tháng 9 năm 34, tức năm 1555, tuyển 160 bé gái tuổi dưới 10 tuổi, tháng 11 cùng năm lại tuyển thêm 20 thiếu nữ ở vùng Hồ Quảng (Hồ Nam và Hồ Bắc của Trung Quốc ngày nay). Tháng giêng năm Gia Tĩnh thứ 43, tức năm 1564, tuyển 300 cung nữ.

Như vậy chỉ tính riêng chuyện đi tuyển người rồi bào chế thứ được xem là “xuân dược” cho Minh Thế Tông đã tiêu tốn khá nhiều công sức, tiền của và lũng loạn xã hội thời bấy giờ. Vì không ít cô gái bị bắt khi còn quá nhỏ tuổi ngày đêm kêu khóc vì nhớ cha mẹ, nhiều gia đình rơi vào cảnh hoảng loạn vì con gái bị bắt đi. Có gia đình thì phải dấu con gái do lo sợ bị bắt. Không chỉ vậy, sự dâm loạn và tàn độc của Minh Thế Tông đã dẫn tới một cuộc nổi loạn trong cung khi những người tham gia cuộc nổi loạn này toàn bộ đều là cung nữ. Những cô gái bị bắt vào cung để lấy “dược liệu” bào chế xuân dược, 4 Xuan duoc 3sau đó lại được dùng để kiểm tra chất lượng của loại thần dược này đã không chịu được sự áp bức của ông chủ hậu cung và quyết định làm loạn.

Dương Kim Anh là cung nữ cầm đầu cuộc nổi loạn sau đó mười mấy cung nữ cùng lúc xông lên, dùng dây thừng siết vào cổ Hoàng đế Thế Tông, định giết chết ông ta… Cuộc nổi loạn tuy không thành công nhưng cũng khiến vị Hoàng đế hoang dâm vô độ của Minh triều được một phen khiếp vía. Thoát được đại nạn lần đó nhưng không có nghĩa là lưới trời buông tha tên hôn quân vô đạo. Chỉ sau 9 năm kể từ ngày sử dụng loại “xuân dược” này, Minh Thế Tông đã chết vì ngộ độc, hưởng thọ 59 tuổi.

Hôn quân Minh Thế Tông chết nhưng những cô gái ở độ tuổi dậy thì vẫn không được yên thân. Kẻ nối ngôi Thế Tông là Mục Tông cũng học theo người cha của mình sử dụng loại “xuân dược” quái đản này và hắn cũng chết bởi ngộ độc “hồng diên hoàn” này khi chưa đầy 36 tuổi. Đã hai án mạng xảy ra vì sử dụng thường xuyên “hồng diên hoàn” nhưng kẻ kế vị tiếp theo là Chu Thường Lạc lại tiếp tục học theo ông và cha tin dùng nó. Vì vậy thái tử Chu Thường Lạc, con vua Thần Tông và là cháu của Mục Tông, chưa kịp lên ngôi thì đã chết một cách bất đắc kỳ tử vì xuân dược. Sử sách gọi đây là “vụ án Hồng diên hoàn” nổi tiếng trong lịch sử triều chính Trung Quốc.

“Hồng diên hoàn” chỉ là thứ uế trọc và vô dụng

Trong cuốn “Hậu cung nhà Thanh” có viết : “Tiếp mệnh thần đan” tuy được một số nhà luyện đan và nhà dưỡng sinh suy tôn hết mức nhưng trên thực tế tác dụng của nó lại không được thần kỳ như mong đợi”. Vì thế mà tới thời nhà Thanh, chẳng thấy còn mấy ai để ý tới loại thần dược này nữa. Đối với loại nguyên liệu “hồng diên”, Lý Thời Trân – nhà dược học nổi tiếng cuối thời Minh đã thẳng thắn bác bỏ. Trong sách “Bản thảo cương mục”, ông viết rằng :

Tinh duc 5– “Kinh nguyệt là thứ không sạch sẽ, bọn phương sĩ dùng tà thuật để tô vẽ, coi đó là loại thần dược bí truyền. Nhiều kẻ ngu muội đã tin theo những điều vô căn cứ đó nên mới đưa thứ uế trọc này vào người, làm cho âm dương khí huyết bị thương tổn, sinh ra đủ thứ bệnh tật… đâu có biết rằng, đó là thứ người quân tử cần phải tránh xa”.

Các nghiên cứu về sau cũng đã khẳng định, trong “hồng diên” cũng như kinh nguyệt của phụ nữ không chứa các chất có tác dụng hồi xuân cũng như những chất đặc biệt có tác dụng để chữa bệnh. Vì vậy, trong các sách thuốc của Đông y hiện đại không còn thấy đề cập đến “hồng diên” nữa.

Lương y Đỗ Quốc Trung, ở phố Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội cho rằng : “Theo quan niệm dân gian lưu truyền thì từ xưa đến nay, con người vẫn tin tưởng rằng một số loại thức ăn, nước uống lấy từ huyết động vật, côn trùng có khả năng làm tăng ham muốn, kéo dài thú vui chăn gối. Nhiều cuốn sách cổ ngày xưa như Kinh yêu đương (Ấn Độ), Tố nữ kinh (Trung Quốc)… đều dành một số trang viết về kiểu “xuân dược” này. Theo đó, có rất nhiều loài động vật, thực vật trong thiên nhiên có thể dùng để chế tạo ra xuân dược theo nguyên tắc “dĩ nhân bổ nhân” – nghĩa là dùng những thứ lấy từ cơ thể con người để bồi bổ cho con người như “hồng diên”, thu thủy (tinh dịch đàn ông) hay tử hà sa (nhau thai bà đẻ)… 4 Xuan duoc 4“Tiếp mệnh thần đan” cũng được bào chế theo nguyên tắc này.

Cũng theo Lương y Đỗ Quốc Trung, nhựa thông bị Bộ Y tế cấm sử dụng trong chế biến thực phẩm dưới bất kỳ hình thức nào vì rất độc hại, có thể gây ra bệnh nan y đối với người tiêu dùng. Trong khi đó, một số vua triều Minh của Trung Quốc lại nghiễm nhiên coi nó là một trong số nguyên liệu tốt để chế nên “xuân dược” để sử dụng hằng ngày. Trong thành phần nhựa thông có đến 70% là chất colofan- gây độc cho cơ thể người, chúng chỉ được dùng chủ yếu trong công nghiệp chế biến, làm xà phòng, keo trong và chất đốt. Nếu dùng trong chế biến thực phẩm, nhựa thông rất độc hại, có thể gây ra các chứng bệnh nan y đối với người dùng thực phẩm. Trầm hương là một vị thuốc quý trong nhưng đối với người có thể tạng khô gầy hay đang sốt thì sử dụng trầm hương lại có tác dụng ngược lại. Vì vậy, những vị vua sử dụng lâu dài “xuân dược” có những thành phần này thì chuyện chết sớm cũng là điều dễ hiểu.

Yên Huỳnh chuyển tiếp

Một bình luận

  1. Về văn hóa tín ngưỡng thì nói thực đôi lúc mình cũng không tin cho lắm. Nhưng đôi lúc thấy cũng đúng

Bình luận về bài viết này